Thiền và nhạc John Cage

Đăng lên

Sưu tầm từ bài được đăng trên báo Văn Hóa Phật Giáo

Sơ lược về nhạc sĩ John Cage

John Cage (1912-1992) là nhạc sĩ tiên phong của thế kỷ XX, người đã làm thay đổi mạnh mẽ nền âm nhạc thế giới với những triết lý hoàn toàn mới về âm nhạc. Những năm 1930 ông theo học các bậc thầy đổi mới đương thới như Henry Cowell và Arnod Schoenberg (người sáng tạo ra nguyên tắc 12 âm). Trong thời gian này ông chịu ảnh hưởng nhiều cua các người thầy và đã viết một số tác phẩm theo nguyên tắc 12 âm như Sáu Invention ngắn(1933), Tác phẩm cho ba giọng (1934), Âm nhạc cho các nhạc cụ hơi (1938) và Metamorphosis (1938). Ngay từ thời điểm đó, cả Schoenberg và Cowell đều đã nhận định John Cage sẽ là một nhà sáng tạo thiên tài. Schoenberg đã từng nói về người học trò của mình rằng “Cậu ta không chỉ là một nhạc sĩ, mà là một người khám phá thiên tài”. Nhưng cái thực sự ảnh hưởng tới John Cage để ông có một vị trí đặc biệt trong lịch sử âm nhạc thế giới là những nghiên cứu của ông về Phật giáo Thiền tông vào cuối những năm 1940. Ngay sau đó, bắt đầu những năm 1950, John Cage đã đưa âm nhạc cổ điển đương đại (contemporary classical music) đến một vùng đất mới lạ, đầy sức sống.

Mỹ học âm nhạc của John Cage

Theo chúng tôi, ảnh hưởng của thiền đối cới tư tưởng âm nhạc của John Cage thể hiện ở bốn điểm như sau:

Thứ nhất, phải diệt bỏ cái tham vọng yêu âm nhạc, muốn nắm bắt bản chất âm nhạc và các qui luật cấu âm.

            Cage cho rằng:”Âm nhạc làm cho tâm trí chính mình được an tịnh, khiến nó dễ dàng đón nhận những ảnh hưởng thánh thiện”. Để thực hiện thú âm nhạc có khả năng dẫn đến một trạng thái tâm trí như thế, thì hiển nheien rằng cái ý tưởng lãng mạn về sự tự diễn đạt phải bị vượt bỏ, và rằng âm nhạc phải hòa nhập chính nó vào môi trường mà trong đó nó hiện hữu. Điều này đưa đến hệ quả là Cage đã đem sự ngẫu nhiên vào công việc sáng tác và trình diễn âm nhạc. Trong tác phẩm Imaginary Landscapes No.4 (1951), Cage sử dụng 12 đài phát thanh để thực hiện. Mỗi một đài do hai người thể hiện. Người ta thao tác các nút bấm để tạo ra sự thay đổi ở mỗi một đài phát thanh và có một chiếc áp khác để kiểm tra chung tất cả các đài. Các nốt nhạc đã được viết chính xác nhưng âm thanh từ đài phát ra sẽ biến đổi rất nhiều trong không gian. Âm nhạc, tự nó trôi nổi, nằm ngoài ý muốn của nhạc sĩ và nhạc công.

Thứ hai, không phân biệt âm nhạc với tiếng ồn. Với âm nhạc, không có bất cứ sự kỳ thị hay phân biệt nào hết.

            John Cage đã đưa ra một định nghĩa mới về âm thanh và quan điểm thẩm mỹ:”Âm thanh ở đây được hiểu theo một nghĩa rất rộng. Nó bao gồm tất cả các loại tiếng ồn, và hòa âm của tác phẩm chính là sự kết hợp các loại tiếng ồn đó”. Mùa hè năm 1952, tại Black Moutain College, Cage đã làm được một thành tựu vượt trước mọi người hàng chục năm. Ông đã viết tác phẩm “Hòa tấu của hành động”, trong đó là sự kết hợp phức tạp giữa piano, máy hát, thơ, nói, nhảy, phim và ánh sáng. Một tác phẩm nữa cũng rất hấp dẫn đó là “Âm nhạc của nước” (1952) viết cho piano mà ở đó piano phải làm ra tiếng nước, đài phát thanh và những quân bài cùng rất nhiêu đôi mắt.

Thứ ba, âm nhạc không gửi gắm cái bản ngã của nhạc sĩ hay nhạc công.

            Trong buổi biểu diễn mang tên 12.55.6078, Cage nói: “Sự sáng tạo âm nhạc, độc lập với tất cả các sở thích cá nhân, với những hiểu biết về ngôn ngữ âm nhạc và với quan niệm truyền thống về văn hóa”. Thay vì cố gắng diễn tả “chính mình”, ông đã giới thiệu một môi trường âm nhạc mở rộng, trong đó thính giả không còn bị những ý đồ của tác giả và nghệ sĩ làm ngập ngụa đầu óc, nên có thể tìm thấy cái tâm điểm của mình. Những âm thanh đã trở thành chính bản thân của chúng, và không còn giữ vai trò minh họa cho những hiện tượng ngoại-âm-nhạc.

Thứ tư,, không còn âm thanh.

            Nổi bật nhất quan điểm này là tác phẩm Composition entilted 4’33” (1952). Đây là một tác phẩm có thể chơi bằng bất cứ loại nhạc cụ nào hoặc bằng một cái gì đó tương đương như nhạc cụ. Tổng phổ hoàn toàn là sự im lặng. Nó không hề có một nốt nhạc nào cả. Người biểu diễn ngồi im lặng trên sân khấu trong suốt thời gian của tác phẩm (4 phút 33 giây). Kết quả cuối cùng chính là âm thanh của tiếng máy điều hòa không khí của phòng hòa nhạ, tiếng ồn do người nghe mang tới, thí dụ như tiếng ho, tiếng cười và những âm thanh từ bên ngoài phòng hòa nhạc mang lại. Ông đã dẫn giải tác phẩm của mình bằng chính định nghĩa về âm thanh mà ông đưa ra.

Âm nhạc của Thiền

            Tại sao trong kịch Nô của Nhật đôi khi xuất hiện những khoảng lặng làm người xem không chuyên sẽ liên tưởng như một đoạn kết thúc một màn opera ở châu Âu? Tại sao khi một Tăng sĩ tụng kinh, sau khi gõ một đoạn dài tiếng mõ và một tiếng chuông là một khoảng khắc ngưng nghỉ? Tại sao trong các bản nhạc cổ cầm thường hay xuất hiện mô – típ khoảng im lặng ngắn sau khi xuất hiện âm kép trầm và bổng? Cái thời điểm không âm thanh đó ý nghĩa gì?

            Có lẽ, đó là: nếu không có im lặng thì sẽ không có âm thanh, và ngược lại, nếu không có âm thanh sẽ không có im lặng. Âm thanh chỉ được hiểu nếu có khoảng lặng. Khác với phương Tây, âm nhạc cổ điển phương Đông rất chú trọng đến sự hài hòa giữa âm thanh và khoảng lặng, như thể hai thành phần không thể tách rời nhau được. Tạo một tác phẩm âm nhạc tức là phải sáng tác trên cả hai thành tố: hiện hữu và vắng mặt.

            Hệ thống âm nhạc cổ điển của phương Tây được tạo ra nghiên cứu về những âm thanh hiện hữu, về cấu trúc và sự hài hòa thính giác. Âm nhạc của John Cage đặt vấn đề ngược lại khi tìm hiểu sự biểu hiện trong cái phi âm thanh, phi cấu trúc, phi hài hòa. Với cái nhìn từ deconstruction (hủy kiến tạo) của Jacques Derrida thì có thể giải thích là: nhạc sĩ trước đây bị logos lừa dối, luôn hướng tới cái phi hiện hữu (im lặng). Sự ra đời âm nhạc của John Cage chính là phá bỏ cái metaphysic of presence bằng metaphysic of absence.             Thực ra, Cage đã đi theo một hướng khác, đến một vùng đất mà lý thuyết của Derrida chưa bước tới. Đó là Thiền. Ở đó, âm nhạc thoát ra khỏi khái niệm chính nó, khái niệm “âm nhạc”. Ở đó không còn chấp vào “âm thanh” hay “im lặng”, “ngôn” hay “vô ngôn”, “hiện hữu” hay “vô hình”. Khi đó, các rào cản khái niệm không còn ý nghĩa gì nữa, và ta trở lại với “âm nhạc” bằng sự giải thoát. Và sau sự giải thoát khái niệm, âm nhạc lại chính là “âm nhạc”.

Translate »