“Muốn giúp nhân dân, trước tìm vị thuốc
Sách trời đã định cõi nước Nam, thổ sản cũng khác nhiều phương Bắc”.
(Trục giải chỉ nam dược tính phú – Tuệ Tĩnh)
Tuệ Tĩnh tên thật là Nguyễn Bá Tĩnh, ông xuất thân trong gia đình bần nông ở tổng Văn Thái, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay là tỉnh Hải Dương). Cha là Nguyễn Công Vỹ, mẹ là Hoàng Thị Ngọc. Ông sinh trưởng dưới triều Trần Dụ Tông (thế kỷ XIV), lúc lên 6 tuổi cha mẹ đều mất. Ông được nhà sư chùa Hải Triều ở Yên Trang gần đấy đưa về nuôi cho ăn học. Đến 10 tuổi, Bá Tĩnh lại được sư cụ chùa Giao Thủy ở Sơn Nam (Nam Định) đưa về cho học với nhà sư chùa Dũng Nhuệ trong huyện. Ở đấy, ông được gọi là Tiểu Huệ nên có biệt danh là Huệ Tĩnh. Ông được học văn, học thuốc để giúp việc chữa bệnh ở chùa.
Đến năm 22 tuổi, ông đi thi Hương trúng bảng, nhưng vẫn ở chùa đi tu lấy pháp hiệu Tuệ Tĩnh. Năm 45 tuổi, ông thi Đình, đậu Hoàng giáp. Năm 55 tuổi ông bị bắt đi sứ sang Trung Quốc. Ông được nhà Minh giữ lại làm việc ở Viện Thái y, rồi mất bên đó.
Cả cuộc đời của ông dành cho việc tìm thuốc Nam, chữa bệnh bằng thuốc Nam, theo phương châm: “Thuốc Nam chữa người Nam”.
Trong bộ sách Nam dược thần hiệu, ông đã ghi lại Bản thảo dược tính 499 vị thuốc Nam, trong đó vị số 188 là Minh trà: “188. Minh trà: Trà ngon, vị ngọt, đắng tính hơi hàn, nhuận tạng, trừ tiệt khu phong, sáng mắt, nhẹ đầu, hạ đờm, trị chướng lỵ, tiêu thức ăn”.
Sách Trục giải chỉ nam dược tính phú ghi: “Trà, vốn thanh tâm giải khát, uống một bát thì muôn điều lo nghĩ tiêu tan”.
Ông còn dùng trà làm phương thuốc Nam trị bệnh.
Bệnh đau lưng, có kinh trị đau lưng rất hay:“Trà ngon nấu nước đậm 5 chung, hòa với giấm 3 chung uống ngay thì lanh”.
Kinh trị bị sương lạnh lở loét: Hoắc dương, chè đầu xuân. Bằng nhau đốt ra tro hòa với dầu phết lên trên lá mà đặt vào, rất hay”.